Lịch sử Thần Moloch

Vị thần Moloch đã được đề cập đến trong lịch sử của vùng Trung Đông, Bắc Phi, được Kinh thánh của người Do Thái nhắc đến, những thư tịch cổ (cổ thư) cho thấy vị thần này gắn với tục hiến tế trẻ em, mãi sau nay tục này mới bị bãi bỏ và việc thờ phượng thần bò Moloch cũng thuyên giảm dần.

Thời sơ kỳ

Tục hiến sinh trẻ em cho thần bò trong Kinh Thánh

Người Phoenicia (Phê-ni-xi) là một nhóm người tụ tập lại sống ở Canaan (Ca-na-an; ngày nay là Lebanon, Syria và Israel) từ giữa năm 1550 trước Công Nguyên đến năm 300 trước Công Nguyên. Ngoài những nghi thức tình dục, thờ phượng Moloch còn bao gồm việc dâng trẻ con làm vật cúng tế hoặc "truyền con cái qua lửa". Người ta tin rằng các thần tượng của Moloch là những bức tượng kim loại khổng lồ của một người đàn ông có đầu bò. Mỗi hình tượng đều có một lỗ ở bụng và có thể là hai cánh tay duỗi thẳng ra tạo thành một đường dốc đến cái lỗ. Một ngọn lửa được thắp sáng trong hoặc xung quanh bức tượng. Trẻ sơ sinh được đặt trên cánh tay của bức tượng hoặc trong cái lỗ. Khi một cặp vợ chồng hy sinh đứa con đầu lòng của họ, họ tin rằng Moloch sẽ đảm bảo sự thịnh vượng tài chính cho gia đình và trẻ em trong tương lai.

Trong Sáng thế ký đoạn 12 thì Abraham (Áp-ra-ham) theo lời kêu gọi của Đức Chúa Trời chuyển đến xứ Canaan, dù sự hiến tế con người không phổ biến ở quê quán Ur (U-rơ) của Abraham, nhưng nó đã có từ lâu trong vùng đất mới của ông. Sau này, Đức Chúa Trời đã yêu cầu Abraham dâng Y-sác như một vật tế lễ[4]. Nhưng sau đó, Đức Chúa Trời đã phân biệt chính Ngài với các vị thần như Moloch. Không giống như các vị thần Canaan bản xứ, Đức Chúa Trời ghê tởm sự hiến tế con người[5]. Trước khi dân Do Thái tiến vào xứ Canaan, Đức Chúa Trời đã cảnh cáo họ không được tham gia vào sự thờ phượng Moloch[6] và nhiều lần bảo ban họ tiêu hủy những nền văn hóa thờ lạy Moloch đó.

Nhưng dân Do Thái đã không lưu ý đến những lời cảnh báo này mà thay vào đó, họ đã kết hợp sự thờ phượng Moloch vào truyền thống của riêng họ. Người Do Thái có khi cũng thờ thần Moloch[7], ngay cả Solomon (Sa-lô-môn) vị vua khôn ngoan nhất mà cũng bị ảnh hưởng bởi sự sùng bái này và xây dựng những nơi thờ phượng cho Mo-lóc và các vị thần khác[8], vua Solomon đã phạm tội bởi sự thờ hình tượng, trên con dốc của những năm ông đã xây dựng bàn thờ. Sự thờ phượng Moloch diễn ra ở "những nơi cao"[9] cũng như ở khe núi hẹp bên ngoài Jerusalem (Giê-ru-sa-lem) được gọi là trũng Him-nôm[10]. Vị thần này được coi là linh hồn chính của các vị thần, kể về thần thoại, Moloch không kém phần quan trọng so với các vị thần khác của họ, như thần Sữa (trong số những người Ammonite) và MelkartTyre trong số những người thuộc nhóm Semitic phía Tây.

Các vua David, Solomon vẫn dùng tượng con bò làm biểu tượng cho Jehovah[11]. Vua Jeroboam I (thế kỷ IX TCN) là cháu nội của David lấp nhiều đền thờ thần El với tượng bò vàng từ thành phố Bethel đến thành phố Dan. Các sách Thánh kinh Cựu ước đã chứng tỏ Do Thái đã thờ Đấng Thượng tôn dưới hình tượng một con bò bằng vàng từ thời Abraham cho đến thời các vua David, Solomon và vua Jeroboam I. Cũng có thể đạo thờ bò El đã kéo dài đến đời tiên tri Ezekiel vào thế kỷ VI (TCN). Trong Vương quốc Judah rất thịnh hành đạo thờ thần Molech hay Moloch có nghĩa là Vua, là một biến thể của đạo thờ bò vì tượng thần có thân hình người nhưng đầu của vị thần là đầu bò.

Để xoa dịu Moloch, trên vùng cao của Topheth, nằm trong thung lũng Ennomova sau đó đã được sử dụng để đốt các em bé. Những người cai trị như vậy của người Do Thái, như AhazManasseh, cũng không ngoại lệ, họ cũng hiến sinh những người thừa kế. Luật pháp của Moses (Môi-se), điều chỉnh hành vi của người Do Thái, đã bãi bỏ thánh tích của quá khứ ngoại giáo, bất cứ ai cố gắng thực hiện nghi lễ hiến tế em bé đều có thể trả giá bằng mạng sống. Những nơi mà sự hy sinh đã được thực hiện (bàn thờ của Tophet) đã bị phá hủy theo lệnh của Josiah, vua của người Do Thái. Các lệnh cấm, bất kể họ đến từ ai, không thể xóa bỏ hoàn toàn mong muốn của người Do Thái để tôn vinh Moloch. Những người được chọn đã không vội vàng tham gia vào truyền thống ngoại giáo.

Thời hậu kỳ

Tượng thờ thần bò ở Cabiria, Turin, Ý

Người đầu tiên đã cố gắng chống lại nghi lễ hiến tế trẻ em cho Moloch trong những nghi lễ ác ôn này là người Assyria, và sau đó là người Babylon. Thời kỳ chinh phục vùng đất Palestine và Phoenician rơi vào thế kỷ 8-6 trước Công nguyên. Việc bắt người Do Thái bởi Babylon vào năm 586 trước Công nguyên đã có một hiệu ứng tích cực trong cuộc chiến chống lại niềm đam mê của lễ thiêu sống trẻ em. Được tiến hành bởi Vua Josiah (Yoshiahu), những thay đổi trong phạm vi tôn giáo cũng được cho là chấm dứt nghi thức hiến tế trẻ em. Điều này được đề cập bởi thần thoại đã đạt đến thời đại hiện nay. Moloch không còn là người có thẩm quyền và bị thách thức bởi những người lạ đã chinh phục vùng đất này.

Bất chấp những nỗ lực thỉnh thoảng của các vị vua tin kính, việc thờ phượng Mo-lóc đã không được bãi bỏ cho đến khi dân Do Thái bị bắt làm phu tù ở Babylon (Ba-by-lôn), sự phân tán dân Do Thái vào một nền văn minh ngoại giáo lớn cuối cùng đã thành công trong việc thanh lọc họ khỏi các vị thần giả của họ. Khi dân Do Thái trở lại vùng đất của họ, họ đã tự mình tái cam kết với Đức Chúa Trời, và trũng Him-nôm đã trở thành một nơi để đốt rác và thân xác của những tên tội phạm bị hành quyết. Jesus đã sử dụng hình ảnh của nơi này như một ngọn lửa thiêu đốt đời, tiêu hủy vô số nạn nhân con người để mô tả địa ngục, nơi những người chối bỏ Đức Chúa Trời sẽ bị đốt cháy vĩnh cửu[12].

Moloch là thần của người Am-môn thờ lạy, cũng được những dân như Phéniciens, Carthage thờ. Lại cũng gọi là thần Minh-côm thờ ở nơi cao tại trước Jerusalem[13]. Người dân Carthages (Gia Thái Cơ), khi cần và khi gặp nguy hiểm, đã hy sinh cho vị thần của họ. Khi Agathocles vây thành Carthage, người trong thành đó phải dâng 200 trẻ con dòng quí phái cho thần như cách trên, ghi chép trong Kinh Thánh đủ chứng rằng có sự đốt chết là thật[14]. Có lúc ở Carthage các nhà trưởng giả đi mua trẻ nhà nghèo về để tế thay nhưng năm 307 trước dương lịch thành bị vây, họ sợ thần thịnh nộ nên các nhà quý tộc phải đưa chính con của mình ra tế, lần ấy 200 trẻ bị đốt, nhiều nơi người ta phải đánh trống đánh chiêng để lấn át tiếng trẻ thét vang khi bị bỏ vào lửa.

Người La Mã sau này đã chinh phục Carthage vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, đã dạy cho người dân địa phương biết rằng tôn thờ Moloch là một thói quen xấu, giống như Satan, các thế lực đen tối được thể hiện đồng thời đóng vai trò là thần và ác quỷ. Moloch là tàn nhẫn không đáng có. Họ dâng thần Moloch những gì thân yêu nhất đối với con người là những đứa con của họ, không thể nào nghi ngờ một điều là rất nhiều người mẹ và người cha dễ dàng hy sinh mình hơn là hy sinh con cái của mình. Qua những gì mà Dodore thuật lại thấy rằng người dân Carthages không phải đã mất đi tình cảm yêu thương đối với các con ruột của mình, có một lúc nào đó họ cũng đã thử đem hiến sinh những đứa con của người khác thay cho các con ruột của mình, nhưng các thầy tế của thần Moloch đã tiếp nhận mưu toan nhân đạo hóa việc sùng bái Moloch. Theo Eissfeldt, cuộc cải cách thế kỷ thứ 7 này đã xóa bỏ sự hiến sinh của trẻ em đã diễn ra.